Bấy giờ đức Phật bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi: “Văn Thù! Ông hãy đi thăm bệnh
Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Trưởng giả Duy Ma Cật”.
Bồ Tát Văn Thù thưa: “Bạch Thế Tôn! Bậc thượng nhân kia khó đối đáp với Ông khi đàm đạo. Ông đã quán triệt sâu sắc thực tướng. Thuyết pháp rất giỏi. Biện tài vô ngại, trí tuệ siêu thường. Ông biết hết pháp thức của Bồ Tát. Thâm nhập kho tàng bí mật của chư Phật. Hàng phục ma quân. Thần thông du hí. Trí tuệ, phương tiện đáng làm thầy người. Dù vậy, vâng lời Phật, con sẽ đi thăm bệnh trưởng giả Duy Ma Cật”.
Các Bồ Tát, Thinh văn, Phạm Thiên, Đế Thích, Tứ Thiên vương cùng có ý niệm: Nay hai vị đại sĩ Văn Thù Sư Lợi và Duy Ma Cật đàm đạo, chắc sẽ nói những pháp mầu nhiệm sâu xa. Chúng hội cả mấy ngàn người đều muốn tháp tùng.
Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi cùng đại chúng tùy tùng hàng hàng, lớp lớp trang nghiêm cung kính đi vào Tỳ Da Ly đại thành để thăm bệnh Trưởng giả Duy Ma Cật.
1.- Ông Duy Ma Cật biết Bồ Tát Văn Thù và đại chúng sắp đến. Ông cho dẹp hết các vật sở hữu chỉ để tịnh thất trống. Không có thị giả và độc nhất có một cái giường, bệnh nhân là Ông Duy Ma Cật nằm choán hết.
2.- Bồ Tát Văn Thù vào thất thấy sự kiện có vẻ lạ thường chưa hỏi han được gì, trưởng giả Duy Ma Cật cất tiếng:
- Quý hóa thay! Ngài Văn Thù Sư Lợi đến mà không có tướng đến. Thấy mà không có tướng thấy.
Bồ Tát Văn Thù đáp: Đúng vậy, thưa cư sĩ. Nếu đến thì lại chẳng đến. Nếu đi thì lại chẳng đi. Bởi vì đến không chỗ “Từ”. Đi không chỗ “Tới”. Gọi là “Thấy” kỳ thật chẳng thấy gì.
Thôi chúng ta gác lại chuyện ấy. Xin hỏi bệnh của cư sĩ có được đở chưa! Trị liệu có bớt không? Thế Tôn ân cần thăm hỏi và lo lắng lắm đó.
Do nguyên nhân gì cư sĩ phát sanh bệnh như thế? Bệnh đã bao lâu rồi và phải làm sao cho hết?
3.- Ông Duy Ma Cật nói: Vì có si mê ái nhiễm mà bệnh của tôi sanh. Vì tất cả chúng sanh bệnh cho nên tôi bệnh. Nếu tất cả chúng sanh không bệnh thì bệnh của tôi lành. Bởi vì Bồ Tát vì chúng sanh cho nên vào trong sanh tử. Có sanh tử thì có bệnh. Nếu chúng sanh khỏi bệnh thì Bồ Tát không còn bệnh nữa. Ví như trưởng giả có một đứa con, đứa con bệnh, cha mẹ cũng bệnh theo. Nếu bệnh của con lành thì bệnh của cha mẹ cũng lành. Bồ Tát cũng như vậy. Với chúng sanh thương như con một. Chúng sanh bệnh thì Bồ Tát bệnh. Chúng sanh lành bệnh thì bệnh của Bồ Tát cũng lành.
Ngài hỏi: Do nguyên nhân gì, bệnh của tôi phát sanh.
4.- Xin thưa: Bệnh của Bồ Tát phát sanh do tâm đại bi.
Bồ Tát Văn Thù hỏi: Vì sao thất của Ngài trống không và không có thị giả? Trưởng giả Duy Ma Cật đáp:
- Cõi nước của chư Phật cũng không như vậy.
- Cõi nước của chư Phật cũng không như vậy.
- Do đâu mà biết không?
- Do trong không cho nên biết không.
- Dùng không để không cái gì?
- Dùng không để không phân biệt.
- Đã không thì phân biệt được gì?
- Phân biệt cũng không.
- Tìm cái không ở đâu, dựa vào đâu để nhận biết?
- Dựa vào 62 kiến chấp của ngoại đạo.
- 62 kiến chấp phải tìm ở đâu?
- Tìm trong đức giải thoát của chư Phật.
- Đức giải thoát của chư Phật tìm ở đâu?
- Tìm nơi tâm tánh của tất cả chúng sanh.
5.- Thưa Ngài Văn Thù! Ngài hỏi vì sao tôi không có thị giả. Thưa Ngài: Tất cả
ma quân và các ngoại đạo là thị giả của tôi. Bởi vì ma quân rất ưa sanh tử, mà Bồ Tát thì ở trong sanh tử không xa rời. Ngoại đạo ưa kiến chấp, Bồ Tát thì ở trong kiến chấp mà không động.
ma quân và các ngoại đạo là thị giả của tôi. Bởi vì ma quân rất ưa sanh tử, mà Bồ Tát thì ở trong sanh tử không xa rời. Ngoại đạo ưa kiến chấp, Bồ Tát thì ở trong kiến chấp mà không động.
5.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Bệnh của cư sĩ trạng huống ra sao?
- Bệnh của tôi không hình trạng không thấy được.
- Bệnh của Ngài thuộc thân hay thuộc tâm?
- Không phải thuộc thân vì tôi đã ly cái tướng thân. Cũng không phải thuộc tâm, vì tâm như huyễn.
- Địa, thủy, hỏa, phong, trong bốn đại, Ngài bệnh đại nào?
- Bệnh của tôi không phải địa đại nhưng không rời địa đại. Không phải thủy, hỏa, phong; cũng không rời thủy, hỏa, phong. Bệnh của chúng sanh phát từ tứ đại. Chúng sanh cho nên tôi bệnh.
7.- Bồ Tát Văn Thù hỏi: Khi một Bồ Tát nhuốm bệnh, vị Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi thế nào, nói những gì?
Ông Duy Ma Cật đáp: “Bồ Tát đi thăm bệnh nên nói: Rằng thân vô thường, nhưng không bảo phải chán bỏ thân. Rằng thân là khổ, nhưng không khuyên nhận cái vui Niết Bàn. Rằng thân là vô ngã, mà khuyến khích tích cực giáo hóa chúng sanh. Rằng thân rỗng lặng như hư không, nhưng không nói vĩnh viễn không như sừng thỏ, lông rùa. Rằng nên ăn năn tội trước, nhưng không nên ôm ấp những lỗi đã qua. Hãy quán xét bệnh của mình mà thương xót người đang có bệnh. Phải tự thức tỉnh rằng: ta đã từng khổ đau trong nhiều kiếp, mà đừng quên nghĩ đến việc lợi lạc cho chúng sanh. Nhớ làm phước đức, luôn nghĩ tường đến đời sống trong sạch. Không nên sanh tâm buồn rầu, thường khởi tâm tinh tấn. Ta phải làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả chúng sanh.
Bồ Tát đi thăm bệnh phải thăm hỏi như thế, an ủi như thế khiến cho Bồ Tát có bệnh phát khởi hoan hỉ.
8.- Văn Thù Sư Lợi hỏi: Thưa cư sĩ! Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình như
thế nào?
thế nào?
Trưởng giả Duy Ma Cật đáp: Bồ Tát có bệnh nên quán chiếu và tư duy rằng, bệnh của ta hôm nay là do các phiền não vọng tưởng điên đảo đời này, đời trước mà sanh ra. Nó là pháp không thật thì ai là người thọ bệnh!
Thân nầy là kết quả của sự tổ hợp, nương gá tứ đại mà thành. Tứ đại không có chủ tể thì thân nầy là vật vô ngã. Bệnh sanh khởi là do chấp ngã. Vì vậy, đối với bản ngã không nên sanh tâm luyến ái chấp mắc.
9.- Đã biết nguồn gốc của bệnh, cần phải trừ bỏ quan niệm”chấp ngã” và “chúng sanh”. Chỉ lưu lại ý tưởng về “pháp”. Do các pháp hợp lại mà thành thân. Sanh chỉ là pháp sanh; diệt chỉ là pháp diệt. Pháp thì chẳng biết gì nhau. Khi sanh nó chẳng nói ta sanh. Khi diệt chẳng nói ta diệt. Tư duy như vậy, Bồ Tát có bệnh trừ diệt quan niệm về “pháp”. Lại tư duy rằng: quan niệm về “pháp” cũng chỉ là một thứ điên đảo. Điên đảo còn thì còn khổ não, còn bệnh hoạn. Thế nên Bồ Tát khởi ý tưởng “Ly”.
- Ly là thế nào?
- Ly ngã và ngã sở.
- Ly ngã, ngã sở là sao?
- Ly cả hai pháp.
- Ly cả hai pháp là thế nào?
- Ly nội tâm, ly ngoại cảnh, thể hiện tánh bình đẳng.
- Bình đẳng như thế nào?
- Bình đẳng về ý niệm ngã và bình đẳng về ý niệm Niết bàn. Nhận thức rõ rằng: Ngã vốn không, Niết-bàn cũng chẳng có. Ngã và Niết bàn đều không.
- Do gì biết đó là không?
- Tư duy rằng chúng chỉ dựa trên văn tự mà giả lập. Chúng không có tính quyết định. Hiểu được tính bình đẳng đó thì không còn bệnh nào khác., chỉ có bệnh”không”. Cuối cùng “không” cũng không. Bấy giờ Bồ Tát có bệnh xử dụng vô sở thọ mà thọ cái thọ. Khi nào Phật pháp chưa đầy đủ, cũng không diệt thọ để nhận lấy quả sở chứng. Giả sử thân có khổ, nhớ nghĩ chúng sanh trong ác thú mà khởi lòng đại bi: rằng ta đã điều phục cũng sẽ điều phục cho chúng sanh. Vì vậy chỉ trừ bỏ bệnh chấp mà không trừ bỏ “pháp”. Vì muốn trị dứt gốc bệnh của chúng sanh mà giáo hóa họ.
10.- Thế nào là gốc bệnh?
- Gốc bệnh có vì có tâm phan duyên. Chừng nào còn có tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
- Đối tượng phan duyên là gì?
- Đối tượng phan duyên là tam giới.
- Làm sao đoạn được phan duyên?
11.- Muốn đoạn phan duyên phải vô sở đắc. Vô sở đắc thì hết phan duyên.
- Sao gọi là vô sở đắc?
- Vô sở đắc có nghĩa là vĩnh ly hai thứ kiến chấp.
- Hai thứ kiến chấp là gì?
- Là nội kiến và ngoại kiến. Nội kiến là chấp bản ngã của tự thân.Ngoại kiến là chấp hiện tượng vạn pháp bên ngoài.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Đây là những điều Bồ Tát có bệnh phải điều phục tâm mình. Nhằm dứt trừ các khổ, lão, bệnh, tử. Đó là Bồ Đề của Bồ Tát. Nếu không như thế thì việc tu sửa của mình sẽ không có được trí tuệ sắc bén. Ví như có chiến thắng đối thủ ngoan cường thì mới gọi là chàng dũng sĩ! Được vậy, Bồ Tát gọi đó là người chiến sĩ tiêu trừ giặc cướp: lão, bệnh, tử.
12.- Bồ Tát có bệnh còn quán chiếu tư duy rằng: Bệnh của ta đây không thật có. Bệnh của chúng sanh cũng không thật có. Quán chiếu tư duy như thế đối với chúng sanh. Nếu sanh khởi lòng đại bi ái kiến thì cần phải xả ly. Bởi vì Bồ Tát nhằm đoạn trừ khách trần phiền não mà phát khởi lòng đại bi. Nếu lòng đại bi còn có tâm ái kiến thì ở trong sanh tử sẽ có lúc mỏi mệt mà thoái thoát đạo tâm. Xa lìa đại bi ái kiến thì hóa độ chúng sanh đời nầy, kiếp khác cùng không có chán nản mỏi mệt. Người không bị ràng buộc mới dạy cách mở cho người ràng buộc. Đang bị ràng buộc mà dạy cách mở ràng buộc cho người khác là chuyện không thể có. Mình không bị ràng buộc, mở ràng buộc giúp cho người khác là việc dễ dàng! Thế nên Bồ Tát không nên làm những điều gì khiến cho mình bị ràng buộc.
13.- Thế nào là bị ràng buộc. Thế nào là được mở ràng buộc?
- Đam mê thiền vị là Bồ Tát bị ràng buộc. Xử dụng các phương tiện trong sinh hoạt bình thường là Bồ Tát không bị ràng buộc.
Lại nữa Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ là bị ràng buộc. Có phương tiện có trí tuệ là Bồ Tát được mở ràng buộc.
- Thế nào là không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc?
- Nghĩa là Bồ Tát dùng tâm ái kiến mà trang nghiêm cõi Phật hóa độ chúng sanh. Dùng “không”, “vô tướng”, “vô tác” mà điều phục tâm mình. Đó là Bồ Tát không phương tiện, không trí tuệ, Bồ Tát bị ràng buộc.
- Có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát được mở ràng buộc là thế nào?
- Nghĩa là Bồ Tát lìa xa các tham dục, sân nhuế tà kiến, các phiền não mà trồng cội phước, hồi hướng thẳng vô thượng Bồ Đề. Đó là có trí tuệ, có phương tiện, Bồ Tát đưọc mở ràng buộc.
Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh phải nên quán các pháp như thế.
Lại nữa, quán thân vô thường, khổ, không, vô ngã. Đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà ở trong sanh tử làm lợi ích cho chúng sanh không chán nản, mỏi mệt. Đó là có phương tiện.
Lại quán về thân. Thân không rời bệnh, bệnh không rời thân. Thân ấy, bệnh ấy không phải mới, không phải cũ gọi đó là trí tuệ. Thân dù có bệnh mà không diệt thân, gọi đó là phương tiện.
14.- Thưa Ngài Văn Thù Sư Lợi! Bồ Tát có bệnh nên như thế mà điều phục tâm mình. Không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Vì trụ tâm bất điều phục là pháp của phàm phu. Trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Thế nên, Bồ Tát không trụ ở tâm điều phục và tâm bất điều phục. Ly đuợc cả hai pháp, thì Bồ Tát làm việc ở sanh tử mà không bị nhiễm ô. Trụ ở Niết bàn mà không diệt độ hẳn. Thế nên Bồ Tát hạnh không phải là hạnh phàm phu cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ Tát hạnh không phải hạnh cấu, cũng không phải hạnh tịnh.
15.- Bồ tát hạnh dù vượt quá hạnh ma màhiện hàng phục các ma. Bồ tát hạnh cầu nhất thiết trí mà không cầu phi thời. Bồ tát hạnh dù quán các pháp không sanh mà không vào chánh vị. Bồ tát hạnh dù quán thập nhị nhân duyên mà tham nhập các tà kiến. Bồ tát hạnh dù chinh phục tất cả chúng sanh mà không luyến ái. Bồ tát hạnh dù ưa vui với hạnh viễn ly mà không có ý tưởng diệt hết tướng thân tâm. Bồ tát hạnh dù sanh hoạt trong tam giới mà không tổn hoại pháp tánh. Bồ tát hạnh dù không chấp ở việc làm phúc đức mà vẫn trồng các cội phước đức. Bồ tát hạnh dù thấy tất cả vô tướng mà vẫn cứu độ chúng sanh. Bồ tát hạnh dù biết vạn pháp vô tác mà vẫn hiện thọ thân. Bồ tát hạnh dù việc làm vô khởi mà khởi các hạnh lành. Bồ tát hạnh dù thực hành lục ba la mật mà phổ biến khắp đủ tâm và tâm sở pháp của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành đủ lục thông mà không hết hoặc lậu. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ vô lượng tâm mà không tham đắm sanh cõi Phạm thế. Bồ tát hạnh dù thực hành thiền định, giải thoát tam muội mà không đam nhiễm vị thiền. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ niệm xứ mà không vĩnh viễn xa lìa thân, thọ, tâm, pháp. Bồ tát hạnh dù thực hành tứ chánh cần mà không bỏ rời sự tinh tấn của thân tâm. Bồ tát hạnh dù hành tứ như ý túc mà được tự tại thần thông. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ căn mà phân biệt các căn lợi độn của chúng sanh. Bồ tát hạnh dù thực hành ngũ lực mà ưa cầu thập lực. Bồ tát hạnh dù thực hành thất giác chi mà phân biệt trí tuệ Phật. Bồ tát hạnh dù thực hành bát chánh đạo mà ưa thực hành vô lượng Phật đạo. Bồ tát hạnh dù thực hành pháp chỉ quán trợ đạo mà không bị rơi vào tịch diệt hoàn toàn. Bồ tát hạnh dù biết rõ các pháp không sanh, không diệt mà vẫn dùng tướng hảo trang nghiêm thân. Bồ tát hạnh dù hiện oai nghi Thanh văn, Duyên giác mà không rời pháp Phật. Bồ tát hạnh dù tùy thuận thật tướng mà vẫn tùy thuận chỗ hiện thân cần thiết. Bồ tát hạnh dù quán đất nước chư Phật vắng lặng như hư không mà hiện cảnh trí thanh tịnh của cõi Phật. Bồ tát hạnh dù được thành Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết bàn mà không rời bỏ đạo Bồ tát.
Sau khi Trưởng gia Duy Ma Cật nói thời pháp ấy có tám ngàn Thiên chúng tùy tùng phát tâm cầu vô thượng chánh đẳng chánh giác.
TRỰC CHỈ
1.- Tịnh thất trống, tiêu biểu “Nhất chân pháp giới, vạn pháp giai không” mhằm xiển dương chân lý:
“Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc. Sắc là không, không là sắc”.
Một giường, một thân. Một thân nằm trên một giường, tiêu biểu pháp thân và huyễn thân bất ly. Pháp thân không rời huyễn thân. Huyễn thân ở trong pháp thân.
“Huyễn hóa không thân tức pháp thân”.
2.- Nếu đứng bên mé sông, trên bờ biển, người ta sẽ thấy chiếc thuyền đi từ địa
điểm này đến địa điểm nọ: Đi từ Thái Bình Dương sang đến Đại Tây Dương chẳng hạn…
điểm này đến địa điểm nọ: Đi từ Thái Bình Dương sang đến Đại Tây Dương chẳng hạn…
Qua sự thấy biết đó, người ta cho rằng chiếc thuyền có Đi có Đến.
Giả sử người ta được nhìn thấy qua cái nhìn thấy cao rộng của phi hành gia vũ trụ thì sự Đi và Đến của chiếc thuyền kia chẳng có nghĩa lý gì cả, vì nó chưa có phút giây tạm rời khỏi mặt địa cầu.
Sự di chuyển “Đến”, “Đi” của con người trong pháp giới “nhất chân” cũng chẳng có nghĩa gì.
Nhìn bằng tuệ nhãn, Bồ tát thấy rõ: “Đến mà không có tướng đến”
“Đi không chỗ khởi hành”
“Đi không chỗ khởi hành”
Bởi trong quá trình Đi, Đến không có giây phút tạm rời pháp giới nhất chân.
“Tánh thấy” và “đối tượng thấy”. Phải học cách nhìn “Pháp nhĩ như thị”, người đệ
tử Phật mới có cơ may nhận thức được chân lý.
tử Phật mới có cơ may nhận thức được chân lý.
Pháp nhĩ như thị nghĩa là thấy mà không có tướng thấy. Thấy cũng như không thấy, không thấy cũng như thấy. Có cũng như không có. Không có cũng như có. Có là không. Không là có. Vì biết rằng: thật tướng của các Pháp là vô tướng.
3.- Sanh, lão, bệnh, tử đối với Bồ tát không có gì đáng nói. Vì đó là quy luật phổ
biến. Nó là chân lý của cuộc đời. Có gì phải bận tâm Bồ tát.
biến. Nó là chân lý của cuộc đời. Có gì phải bận tâm Bồ tát.
Bồ tát Duy Ma Cật bệnh, chỉ là một cái cớ được tạo ra nhằm triển khai thật tướng, chỉ bày pháp tánh, giới thiệu pháp thân, xiển dương đệ nhất nghĩa của Đại thừa.
Vì gió độc si ái làm cho Bồ tát sanh bệnh. Vì chúng sanh bệnh mà Bồ tát bệnh. Chừng nào chúng sanh hết bệnh, thì bệnh Bồ tát lành.
Bồ tát thương chúng sanh như cha mẹ thương con. Con bệnh cha mẹ bệnh theo. Con lành bệnh, bệnh cha mẹ cũng lành.
Bệnh của Bồ tát phát sanh do tâm đại bi.
4.- Cõi nước của chư Phật cũng trống không, thất của Bồ tát Duy Ma Cật cũng trống không, nhằm khai thị đạo lý “Hành thâm Bát Nhã, chiếu kiến ngũ uẩn giai không”.
Tuy nhiên người đạt đạo phải tìm thấy “Cái không ngay trong cái có”.
Đó là cái nhìn cũa tuệ nhãn: Đương thể tức không của Bồ tát.
5.- Ma quân ưa sanh tử. Bồ tát ở trong sanh tử không rời. Ngoại đạo đam mê kiến chấp, Bồ tát ở trong kiến chấp mà không động.
rồi.
Do vậy Bồ tát không cô đơn. Ma quân và ngoại đạo là người hầu cận, là “thị giả”
6.- Bệnh của Bồ tát không thuộc thân, vì Bồ tát đã ly “thân tướng”. Cũng không phải thuộc tâm, vì Bồ tát biết rõ “tâm như huyễn”.
7.- Khi thăm bệnh, Bồ tát cần nhắc nhở bệnh nhân về sự vô thường, khổ, không, vô ngã, bất tịnh của thân, nhưng không khuyến khích chán nản thân, bi quan, yếm thế và tiêu cực vì thân.
Hãy quán xét bệnh của mình, mà nghĩ đến bệnh khổ của chúng sanh. Hãy phát chí nguyện làm vị đại y vương để trị bệnh cho tất cả.
8.- Bồ tát có bệnh nên tự quán chiếu rằng: Bệnh của ta do phiền não vọng tưởng
điên đảo, do chấp ngã pháp mà sanh. Có điên đảo thì có bệnh khổ.
điên đảo, do chấp ngã pháp mà sanh. Có điên đảo thì có bệnh khổ.
9.- Muốn trừ diệt bệnh khổ, Bồ tát khởi ý tưởng “Ly”. Ly ngã, ngã sở. Ly nội tâm, ly ngoại cảnh. Khởi ý niệm bình đẳng rằng: Ngã vốn không và Niết bàn cũng chẳng có.
10.- Gốc bệnh của chúng sanh là tâm phan duyên. Chừng nào chúng sanh còn tâm phan duyên thì gốc bệnh còn.
11.- Muốn đoạn tâm phan duyên phải “Vô sở đắc”.Muốn được vô sở đắc phải viễn ly chấp ngã và chấp pháp.
12.- Bồ tát cứu độ chúng sanh không được có lẫn tâm ái kiến. Nếu lòng đại bi mà có lẫn ái kiến thì việc độ sanh sẽ có lúc mỏi mệt nản lòng.
13.- Trong việc độ sanh, thực hiện đúng chánh pháp, Bồ tát tự tại trong nhiệm vụ lợi tha. Thực hiện sai chánh pháp, Bồ tát có thể bị ràng buộc, mắc mứu, chướng ngại sự giải thoát giác ngộ của mình.
Nếu Bồ tát còn mống niệm đam mê, trụ chấp dù là đam mê trụ chấp thiền định lục ba la mật, Bồ đề, Niết bàn, Bồ tát bị ràng buộc rồi.
Bồ tát phải thường xuyên xử dụng trí tuệ, luôn luôn vận dụng phương tiện trong việc độ sanh là Bồ tát được cởi mở ràng buộc.
14.- Bồ tát có bệnh điều phục tâm mình bằng cách: không trụ ở tâm điều phục, cũng không trụ ở tâm bất điều phục. Bởi vì trụ ở tâm điều phục là pháp của Thanh văn. Trụ ở tâm bất điều phục là pháp của phàm phu.
15.- Bồ tát phải thể hiện Bồ tát hạnh. Không thể hiện Bồ tát hạnh thực nghĩa Bồ tát không còn.
Bồ tát hạnh không phải là hạnh phàm phu, cũng không phải là hạnh hiền thánh. Bồ tát hạnh không phải hạnh cấu nhiễm cũng không phải hạnh thanh tịnh.
Bồ tát hạnh: “Ưng vô sở trụ, nhi sanh kỳ tâm”.
0 nhận xét:
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!