AN LẠC HẠNH
Bấy giờ, Bồ tát Văn Thù Sư Lợi bạch Phật: Thế Tôn ! Các Bồ tát này làm việc khó có là phát nguyện hộ trì, đọc tụng, giảng kinh Pháp Hoa trong đời ác trược về sau. Thế Tôn ! Làm thế nào mà các vị Bồ tát này nói được kinh Pháp Hoa trong đời ác trược ? Phật bảo Văn Thù: Nếu Bồ tát Ma ha tát, ở đời ác trược, muốn nói kinh nầy thì nên an trú vào 4 pháp sau đây:
1. Hành xứ: Bồ tát hành xứ là đứng vững trên đất nhẫn nhục, dịu hòa thuận thảo mà không nóng nảy, tâm cũng chẳng sợ sệt, lại ở trong muôn vật mà lòng không xao xuyến, xem muôn vật trống không như “thật tướng”, không nghĩ ngợi gì mà cũng không phân biệt.
2. Bất thân cận xứ: Bồ tát không gần gũi:
- Hạng người quyền thế (vua, con vua, quan lớn, quan nhỏ).
- Hạng người tu theo ngoại đạo (Phạm chí, Ni kiền tử…).
- Hạng văn nhân, thi sĩ của thế tục
- Các phái Lộ-già-da-đà, Nghịch lộ già-da-đà.
- Hạng người chơi hung, lấy sự đâm chém, đánh đá làm thích.
- Bọn Chiên đà la.
- Hạng người làm sai giới luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới.
- Hạng người tu theo ngoại đạo (Phạm chí, Ni kiền tử…).
- Hạng văn nhân, thi sĩ của thế tục
- Các phái Lộ-già-da-đà, Nghịch lộ già-da-đà.
- Hạng người chơi hung, lấy sự đâm chém, đánh đá làm thích.
- Bọn Chiên đà la.
- Hạng người làm sai giới luật như nuôi heo, dê, gà, chó, đi săn, chài lưới.
Những người trong các giới ấy, nếu có lúc họ đến với mình, thì Bồ tát vì họ mà giảng dạy cho họ nghe, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Cũng không nên làm thân với những người cầu được làm Thanh Văn, Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu bà di, cũng không nên hỏi chuyện họ. Dầu ở trong phòng, dầu lúc đang đi kinh hành, dầu lúc ở giảng đường, bất luận ở đâu, không nên cùng họ đứng cùng một chỗ. Nếu gặp lúc họ đến với mình thì tùy nghi mà thuyết pháp, lòng đừng hy vọng mong cầu một điều gì.
Văn Thù Sư Lợi ! Bồ tát lại còn không nên ngó thân người nữ mà sanh lòng ham muốn rồi nói pháp cho họ nghe, cũng đừng ưa thấy nữ nhân. Khi vào nhà người, đừng nói chuyện với trẻ gái nhỏ, con gái lớn và đàn bà góa. Cũng không nên gần những người “bất nam”. Đừng một mình vào nhà người. Nếu có duyên cớ cần phải vào nhà người một mình, thì phải giữ một tâm niệm Phật.
Khi nói pháp cho đàn bà, con gái nghe, đừng cười hở răng, đừng bày hông, ngực. Thậm chí đối với người vì pháp mà đến, cũng không nên gần gũi thân mật với họ, hà huống là đối những người đến vì chuyện khác.
Không nên thích nuôi những đệ tử ít tuổi, những sa di trẻ con. Cũng không nên ưa dùng chúng một thầy, mà nên ưa ngồi thiền ở chỗ vắng lặng, sửa nắm tâm mình.
Đó là “Bất thân cận xứ” thứ nhất của Bồ tát.
Lại nữa, Bồ tát phải thấy muôn vật đều “không” như “thật tướng”, không điên đảo, không động, không thối, như hư không, thấy muôn vật không có thực tánh, chẳng sanh, chẳng xuất, chẳng khởi, vô danh, vô tướng, thực không có gì cả, vô lượng vô biên, vô ngại, vô chướng: thấy những danh từ lời nói dùng để chỉ vật nầy sự nọ, đều là trái với chân lý
(ngữ ngôn đọa đoạn), chỉ vì cái nguyên nhân đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét cái tướng của vạn vật là như thế.
(ngữ ngôn đọa đoạn), chỉ vì cái nguyên nhân đảo điên nên mới thế này thế nọ. Phải vui xét cái tướng của vạn vật là như thế.
Đó là “Bất thân cận xứ” thứ nhì của Bồ tát.
3. An lạc hạnh: Phật nói tiếp: Sau Như Lai diệt độ, trong đời mạt pháp muốn nói kinh nầy, Bồ tát phải ở yên trong “An lạc hạnh”. Nghĩa là, khi nói cũng như khi đọc kinh nầy, chẳng nên nói đến sự sai quấy của người và của kinh điển, cũng chẳng nên có lòng khinh rẻ, kiêu ngạo đối với các Pháp sư, chẳng nên nói đến sự tốt xấu, hay dở của người khác. Đối với hàng Thanh Văn, chẳng nên kêu đích danh mà vạch sự sai lầm, gàn dở của họ, cũng không nên kêu đích danh mà khen tặng cái hay của họ, lại cũng không sanh tâm thù hiềm. Khéo sửa lòng cho được an lạc như vậy thì không làm nghịch ý người nghe. Còn
có ai vấn nạn thì đừng giải đáp bằng pháp tiểu thừa, mà bằng pháp đại thừa, để cho người hỏi được Chánh giác.
có ai vấn nạn thì đừng giải đáp bằng pháp tiểu thừa, mà bằng pháp đại thừa, để cho người hỏi được Chánh giác.
Bồ tát muốn thuyết pháp phải giữ lòng an vui, trong sạch, thân thể phải tắm rửa cho sạch, mặc y mới. Nói tóm là trong ngoài phải thanh tịnh, nhiên hậu mới nên ngồi pháp tòa, tùy lời hỏi của người mà giảng. Đối với người vì Đạo thì đem diệu nghĩa ra mà dạy, mặt mày hòa nhã. Đối với người vấn nạn, thì tùy nghĩa mà đáp, khi thì dùng nhân duyên, khi thì dùng thí dụ mà diễn mà giải rạch ròi, để lần hồi dẫn dắt họ vào đường sáng (Phật Đạo). Tự mình, phải trừ mọi ý niệm ỷ lại, mọi tư tưởng lười biếng, xa lìa mọi lo nghĩ, buồn rầu. Mở rộng lòng từ, ngày đêm nói pháp để mở mắt cho chúng sanh mà không bao giờ mong cầu sự cúng dường, chỉ một lòng tưởng nhớ đến việc lấy pháp làm nhân duyên để thành Phật đạo, khiến người nghe cũng cùng một tâm niệm.
Trong thời mạt pháp, Bồ tát nào thọ trì, đọc tụng kinh này thì không nên chứa chấp sự ganh ghét, tà vạy, khinh khi người học Phật, không làm cho hàng tu hành chán nản, cũng không nên đem Đạo Pháp ra bàn chơi, tranh cãi. Phải:
- Đối với tất cả chúng sanh, khởi lòng đại bi.
- Đối với chư Như Lai, sanh lòng kính trọng như Cha lành.
- Đối với chư Như Lai, sanh lòng kính trọng như Cha lành.
- Đối với Bồ tát, sanh lòng tôn kính như Thầy.
- Đối với mười phương Bồ tát, sanh lòng cung kính cúng dường.
- Đối với mười phương Bồ tát, sanh lòng cung kính cúng dường.
Thực hiện đầy đủ pháp “an lạc” thứ ba nầy, thì khi thuyết kinh, không làm cho người nghe hoang mang, được người cùng theo mình mà đọc tụng, còn đại chúng sẽ tới nghe lãnh lời kinh, lãnh rồi nắm giữ, giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ chép và khiến người cùng chép.
4. Phát Đại bi tâm: Lại nữa này Văn Thù ! Trong đời mạt pháp, ai là người muốn nắm giữ kinh Pháp Hoa, phải sanh đại bi tâm đối với hàng xuất gia và tại gia. Đối với người chẳng phải là Bồ tát (chưa tu hạnh vị tha), cũng phát đại bi tâm mà nghĩ như vầy:
Như Lai phương tiện tùy nghi thuyết pháp, mà họ lại chẳng nghe, chẳng biết, chẳng tỉnh, chẳng hỏi, chẳng tin, chẳng giữ, thật là bất lợi vô cùng. Ngày nào ta được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, nguyện sẽ dùng thần lực trí lực mà dắt dẫn họ vào yên trong Đạo Pháp.
Đó là “an lạc” thứ tư.
Như Lai diệt độ rồi, Bồ tát nào thành tựu được pháp thứ tư nầy thì khi thuyết kinh Pháp Hoa, không bao giờ có sự sai lầm, mất mát. Người thế gian từ vua tới dân, sẽ cung kính cúng dường, trong hư không Chư Thiên sẽ luôn luôn hộ vệ cho. Tại sao thế ? Vì kinh nầy được chư Phật ba đời bảo hộ. Này Văn Thù, trong vô lượng cõi nước, nghe được tên kinh nầy còn chưa có, hà huống được thấy, được thọ trì, đọc tụng. Thí như nhà vua dẹp giặc xong, muốn thưởng công tướng sĩ, có thể cấp cho đất cát, y phục, ngọc ngà, châu báu, xe ngựa, nô tỳ, nhưng không bao giờ cho viên ngọc vô giá trên mão của vua. Như Lai cũng thế. Nhờ sức mạnh của thiền định và trí tuệ, Như Lai làm vua “nước Pháp”, thống ngự ba cõi. Vì ma vương không hàng phục nên Như Lai mới dùng Hiền Thánh làm tướng để
đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền của: thiền định, giải thoát, vô lậu. Thành quách: niết bàn. Tạm nói là diệt độ, để dẫn dắt tâm họ, khiến mọi người hoan hỉ, nhưng chưa vì họ mà nói kinh Pháp Hoa. Nhưng khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô giá. Như Lai cũng thế, thấy đội công Hiền Thánh đã lập được đại công chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc, ra khỏi ba cõi phá lưới ma, nên ban cho kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của Như Lai.
đánh ma vương. Đối với các bậc hữu công trong trận chiến này, Pháp vương Như Lai ban cho tiền của: thiền định, giải thoát, vô lậu. Thành quách: niết bàn. Tạm nói là diệt độ, để dẫn dắt tâm họ, khiến mọi người hoan hỉ, nhưng chưa vì họ mà nói kinh Pháp Hoa. Nhưng khi binh sĩ lập được công to, nhà vua sẽ cho viên ngọc vô giá. Như Lai cũng thế, thấy đội công Hiền Thánh đã lập được đại công chiến thắng ngũ ấm ma, phiền não ma, tử ma, đã diệt ba độc, ra khỏi ba cõi phá lưới ma, nên ban cho kinh Pháp Hoa là lời thuyết cao cả nhất của Như Lai.
THÂM NGHĨA
An Lạc Hạnh là việc làm đem lại sự an vui. Đạo Phật dạy tu hành nhằm đem lại cho mọi người sự an vui trong cuộc sống. Chớ Niết bàn không phải là một “cảnh giới” xa xăm nào khác.
Ở phẩm kinh nầy, Phật dạy cho các Bồ tát, cho những ai phát tâm nắm giữ, duy trì, truyền bá, giảng nói Kinh Diệu Pháp Liên Hoa những phương cách đem lại cho mình, cho người nghe đều được sự “an lạc”.
Để cho sự thọ trì truyền bá giảng nói được trong sáng, cảm thông sâu sắc giữa người nói và người nghe, một Pháp sư Pháp Hoa cần lưu tâm bốn điểm. Thực hiện bốn điều nầy không sai phạm thì hành giả Pháp Hoa có được sự lợi ích “an lạc” trọn vẹn. Bốn điều đó là:
- Hành xứ
- Thân cận xứ
- An lạc hạnh
- Phát đại từ bi tâm
- Thân cận xứ
- An lạc hạnh
- Phát đại từ bi tâm
1. Hành xứ là những việc làm hàng ngày trong cuộc sống. Trong cuộc sống Bồ tát thường vận dụng trí tuệ, tư duy, quán chiếu vạn Pháp trước mắt, để thể nhập “thật tướng” của các Pháp là “vô tướng”. Đối với nền giáo lý liễu nghĩa thượng thừa thậm thâm, Bồ tát tu học, thọ trì, truyền bá không hề nhàm mỏi, không dấy niệm kinh nghi, khéo nhẫn nhục nhu hòa, không chao đảo thối thất trước nghịch cảnh, không nóng vội
trước khó khăn. Bồ tát vận dụng căn bản trí quán sát vạn pháp qua cái nhìn trực giác “vô phân biệt”, un đúc thành thứ “Tri kiến vô kiến”, xa lìa tánh “biến kế chấp” thường tình, vượt ra ý thức phân biệt “Tri kiến lập tri”.
trước khó khăn. Bồ tát vận dụng căn bản trí quán sát vạn pháp qua cái nhìn trực giác “vô phân biệt”, un đúc thành thứ “Tri kiến vô kiến”, xa lìa tánh “biến kế chấp” thường tình, vượt ra ý thức phân biệt “Tri kiến lập tri”.
2. Thân cận xứ là tiêu chuẩn qui ước của Bồ tát, của Pháp sư Pháp Hoa trên con đường tự độ hóa tha. Thân cận xứ có hai: một là thân cận. Hai là không thân cận.
* Nên thân cận là chỗ mà Bồ tát có thể thân cận và những việc mà Bồ tát nên làm. Nói rõ ra là Bồ tát nên luôn luôn quán niệm tư duy: “Nhất thiết Pháp không”. “Nhất thiết Pháp như thật tướng”. Bồ tát nhận thức rằng: tất cả pháp từ xưa đến nay rời ngoài ngôn ngữ, vượt ra văn tự, tuyệt đường nghĩ ngợi so lường, rốt ráo bình đẳng, thanh tịnh bản nhiên
“…Chưa từng có một pháp Không do nhân duyên sanh Thế nên tất cả pháp
Không pháp nào chẳng không”.
Bồ tát thường quán sát vạn pháp với cái tánh Như thị của chính nó. Rằng: “Tướng của nó như vậy”
“Tánh của nó như vậy”
“Tướng của nó như vậy” “Thể của nó như vậy” “Tác của nó như vậy”
Không pháp nào chẳng không”.
Bồ tát thường quán sát vạn pháp với cái tánh Như thị của chính nó. Rằng: “Tướng của nó như vậy”
“Tánh của nó như vậy”
“Tướng của nó như vậy” “Thể của nó như vậy” “Tác của nó như vậy”
“Lực của nó như vậy” “Nhơn của nó như vậy” “Duyên của nó như vậy” “Quả của nó như vậy” “Báo của nó như vậy”
Và trước sau, từ đầu đến cuối nó vốn “như vậy”.
Và trước sau, từ đầu đến cuối nó vốn “như vậy”.
Đó là những chỗ nên thân cận của Bồ tát.
* Không nên thân cận là những chỗ, những người và những việc mà Bồ tát nên tránh:
- Không nên thân cận người có quyền thế (vua, con vua, các quan lớn, quan nhỏ).
- Không nên thân cận với những bọn Phạm chí hảo hán, bọn Ni kiền tử chủ trương lỏa hình).
- Không nên thân cận hàng văn nhân, thi sĩ không lành mạnh.
- Không nên thân cận với hạng ngoại đạo “thuận thế” và “nghịch thế”.
- Không nên thân cận những người tà thuật, biến hóa huyển hoặc.
- Không nên thân cận những người chỉ mong cầu quả vị Thanh Văn (Tiểu căn, tiểu trí, tự độ)
- Không nên thân cận với hàng quả nữ, xử nữ và tiểu nữ.
- Không nên thân cận với trẻ nít và sa di ít tuổi.
- Không nên thân cận với những bọn Phạm chí hảo hán, bọn Ni kiền tử chủ trương lỏa hình).
- Không nên thân cận hàng văn nhân, thi sĩ không lành mạnh.
- Không nên thân cận với hạng ngoại đạo “thuận thế” và “nghịch thế”.
- Không nên thân cận những người tà thuật, biến hóa huyển hoặc.
- Không nên thân cận những người chỉ mong cầu quả vị Thanh Văn (Tiểu căn, tiểu trí, tự độ)
- Không nên thân cận với hàng quả nữ, xử nữ và tiểu nữ.
- Không nên thân cận với trẻ nít và sa di ít tuổi.
Trường hợp chẳng đặng đừng, phải tiếp xúc với thân cnậ với những người trên, vì giảng nói kinh pháp cho họ nghe, lòng đừng hy vọng cậy trông nơi họ một điều gì.
3. An lạc hạnh: Bồ tát trì kinh Pháp Hoa phải giữ tâm khinh an, thanh thoát, hoan hỉ
trong lúc giảng nói, định tĩnh khi thọ trì đọc tụng và tự cảnh tĩnh!
trong lúc giảng nói, định tĩnh khi thọ trì đọc tụng và tự cảnh tĩnh!
- Không nói lỗi lầm của người khác và của kinh điển.
- Không khinh khi ngạo mạn với những người tu hành khác.
- Không sanh tâm oán thù hiềm khích với mọi người.
- Không chê bai hạnh tu của hàng Thanh Văn, Duyên Giác khiến cho mất niềm tin trên
đường tiến lên chánh đạo.
- Nếu có người vấn nạn không giải đáp bằng pháp Tiểu thừa, phải hướng dẫn họ pháp Đại thừa, chỉ cho họ đi vào con đường “Nhất thiết chủng trí”. Đối với tất cả chúng sanh khởi lòng đại bi. Với chư Như Lai sanh lòng kính trọng như đấng cha lành. Với Bồ tát tôn kính như Thầy. Nên khởi lòng cung kính cúng dường Bồ tát trong mười phương.
- Không khinh khi ngạo mạn với những người tu hành khác.
- Không sanh tâm oán thù hiềm khích với mọi người.
- Không chê bai hạnh tu của hàng Thanh Văn, Duyên Giác khiến cho mất niềm tin trên
đường tiến lên chánh đạo.
- Nếu có người vấn nạn không giải đáp bằng pháp Tiểu thừa, phải hướng dẫn họ pháp Đại thừa, chỉ cho họ đi vào con đường “Nhất thiết chủng trí”. Đối với tất cả chúng sanh khởi lòng đại bi. Với chư Như Lai sanh lòng kính trọng như đấng cha lành. Với Bồ tát tôn kính như Thầy. Nên khởi lòng cung kính cúng dường Bồ tát trong mười phương.
Bồ tát thực hiện đầy đủ pháp “an lạc” thứ ba nầy, khi thuyết giảng kinh người nghe không ngờ vực hoang mang. Đại chúng sẽ hoan hỉ tiếp thu lời kinh ý Phật, lãnh hội nắm giữ rồi sẽ đọc, đọc rồi sẽ thuyết, thuyết rồi sẽ biên chép và khuyến khích nhiều người cùng thọ trì, đọc tụng, biên chép để lưu bố rộng nhiều.
4. Phát khởi tâm Đại từ bi:
Bồ tát “trì” kinh Pháp Hoa vào thời mạt pháp, đối với hạng xuất gia hay tại gia nên pháp khởi lòng đại bi. Đối với hạng người không phải Bồ tát, nên sanh lòng đại bi. Bồ tát nên nghĩ rằng: “Như Lai vô số phương tiện tùy nghi nói pháp, thế mà họ không biết, không nghe, không tỉnh ngộ, không hiểu, không tin, không học hỏi thật là mất lợi rất nhiều. Dù vậy ngày thành Phật, ta sẽ vận dụng sức trí tuệ dẫn dắt họ vào an trụ nơi pháp Đại thừa của Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
Bồ tát “trì” kinh Pháp Hoa vào thời mạt pháp, đối với hạng xuất gia hay tại gia nên pháp khởi lòng đại bi. Đối với hạng người không phải Bồ tát, nên sanh lòng đại bi. Bồ tát nên nghĩ rằng: “Như Lai vô số phương tiện tùy nghi nói pháp, thế mà họ không biết, không nghe, không tỉnh ngộ, không hiểu, không tin, không học hỏi thật là mất lợi rất nhiều. Dù vậy ngày thành Phật, ta sẽ vận dụng sức trí tuệ dẫn dắt họ vào an trụ nơi pháp Đại thừa của Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa.
Đây là pháp “an lạc” thứ tư của Bồ tát.
Sau Như Lai diệt độ, Bồ tát thành tựu viên mãn “An lạc hạnh” thì lúc thuyết kinh sẽ không phạm phải sai lầm, người nghe sẽ đẹp lòng mà cung kính, chư thiên hoan hỉ hộ vệ cho.
* Kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, ở vô lượng cõi nước chưa hề nghe được tên kinh, còn nói chi việc thấy kinh và đọc tụng thọ trì. Ví như Đại quốc vương, sai binh tướng
xuất quân dẹp giặc, dẹp giặc xong, để thưởng công cho tướng sĩ ba quân nhà vua có thể cấp cho nhà cửa, ruộng vườn y phục, vàng bạc, ngựa xe v.v..nhưng không bao giờ cho viên minh châu trên mão của nhà vua. Cho đến khi chiến sĩ lập được chiến công vô cùng hiển hách, nhà vua lúc bấy giờ mới đem viên minh châu trên mão của mình mà ban tặng. Đấy là một sự kiện cả hoàng tộc và thần dân kinh dị sững sờ. Như Lai cũng vậy. Nhờ sức mạnh thiền định và trí tuệ, Như Lai làm “vua nước pháp điều phục và chế ngự ba cõi vì hàng phục ma quân, Như Lai dùng Hiền, Thánh làm tướng binh để đánh dẹp. Với các bậc hữu công trong trận chiến, Pháp Vương Như Lai ban cho của báu. Thiền định, giải thoát, căn, lực, vô lậu pháp và cả thành đô Niết bàn. Với ngần ấy “Thánh Tài” mọi người rất bằng lòng và hoan hỉ. Như Lai chưa vì họ mà nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Cho đến khi thấy đội quân Hiền, Thánh đã lập được công to oanh liệt, quét sạch bọn ma quân ngũ ấm, ma phiền não, ma thiên và ma tử; triệt tiêu tam độc, ra khỏi ba cõi. Bấy
giờ Như Lai vui mừng, mới đem kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa ra mà trao dạy.
xuất quân dẹp giặc, dẹp giặc xong, để thưởng công cho tướng sĩ ba quân nhà vua có thể cấp cho nhà cửa, ruộng vườn y phục, vàng bạc, ngựa xe v.v..nhưng không bao giờ cho viên minh châu trên mão của nhà vua. Cho đến khi chiến sĩ lập được chiến công vô cùng hiển hách, nhà vua lúc bấy giờ mới đem viên minh châu trên mão của mình mà ban tặng. Đấy là một sự kiện cả hoàng tộc và thần dân kinh dị sững sờ. Như Lai cũng vậy. Nhờ sức mạnh thiền định và trí tuệ, Như Lai làm “vua nước pháp điều phục và chế ngự ba cõi vì hàng phục ma quân, Như Lai dùng Hiền, Thánh làm tướng binh để đánh dẹp. Với các bậc hữu công trong trận chiến, Pháp Vương Như Lai ban cho của báu. Thiền định, giải thoát, căn, lực, vô lậu pháp và cả thành đô Niết bàn. Với ngần ấy “Thánh Tài” mọi người rất bằng lòng và hoan hỉ. Như Lai chưa vì họ mà nói kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa. Cho đến khi thấy đội quân Hiền, Thánh đã lập được công to oanh liệt, quét sạch bọn ma quân ngũ ấm, ma phiền não, ma thiên và ma tử; triệt tiêu tam độc, ra khỏi ba cõi. Bấy
giờ Như Lai vui mừng, mới đem kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa ra mà trao dạy.
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa là tạng bí yếu của Như Lai. Đối với kinh, kinh Diệu Pháp Liên
Hoa là “thừa tối thượng”.
Hoa là “thừa tối thượng”.
0 nhận xét:
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!