QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT PHỔ MÔN
Lúc bấy giờ Bồ tát Vô Tận Ý lễ Phật bạch rằng: Thế Tôn ! Do nhân duyên nào mà Bồ tátQuán Thế Âm tên là Quán Thế Âm.
Phật bảo: Vô lượng trăm ngàn muôn ức chúng sanh đang bị khổ não mà nghe Bồ tát
Quán Thế Âm rồi “nhất tâm” xưng niệm danh hiệu của Bồ tát thì tất cả chúng sanh ấy đều
được giải thoát khổ não.
Người nắm giữ danh hiệu của Bồ tát Quán Thế Âm thì nhờ oai thần của Bồ tát mà:
• Vào lửa không bị lửa thiêu.
• Chìm dưới nước, được vào chỗ cạn.
• Đi thuyền tìm châu báu trong biển lớn bị lạc vào nước quỷ La Sát sẽ thoát được nạn quỷ ấy.
• Sắp bị dao gậy chém đánh, thì dao gậy kia bị gẫy từng khúc.
• Khỏi bị Dạ Xoa và La Sát làm hại, thậm chí chúng không dám ngó nhìn.
• Bị xiềng xích gông cùm, đều có tội hay không, xiềng xích gông cùm thảy đều đứt rã.
• Gặp đường hiểm nạn, được thoát khỏi và không bị sợ hãi.
Lại nữa, chúng sanh nào nhiều dâm dục, nhiều giận hờn, nhiều ngu si, mà thường cung kính niệm danh hiệu Bồ tát Quán Thế Âm thì được lìa dục, lìa sân, lìa si.
Này Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm oai thần vòi vọi như thế, cho nên chúng sanh phải một lòng tưởng nhớ.
Người nữ nào lễ bái, cúng dường Bồ tát Quán Thế Âm để cầu con trai thì được con trai phước đức trí tuệ, còn muốn cầu con gái hình tướng xinh đẹp, trồng sâu cội phước, người người kính mến.
Cung kính lễ bái Quán Thế Âm phước đức không bao giờ mất và nhiều như phước đức của người niệm danh hiệu và cúng dường sáu mươi ức hằng hà sa Bồ tát.
Vô Tận Ý bạch: Thế Tôn ! Bồ tát Quán Thế Âm làm thế nào mà dạo khắp ta bà ? Sức mạnh phương tiện của Bồ tát như thế nào?
Phật bảo: Nếu có chúng sanh quốc độ nào cần thân Phật mới độ thoát họ được, thì Bồ tát
Quán Thế Âm liền hiện thân Phật mà thuyết pháp cho họ nghe.
Nếu cần thân Duyên Giác, thân Thanh Văn, thân Phạm Cương, thân Đế Thích, thân Tự
Tại Thiên, thân Thiên Đại Tướng Quân, thân Tỳ Sa môn, thân Tiểu vương, thân Trưởng giả, thân Cư sĩ, thân Tể quan, thân Bà la môn, thân Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Ưu bà tắc, Ưu
bà di, thân con trai, con gái, thậm chí đến thân Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, cùng không phải loài người, để độ thoát một chúng sanh của một quốc độ nào đó, thì Bồ tát Quán Thế Âm tùy trường hợp hiện thân ấy mà hóa độ.
Vô Tận Ý, Bồ tát Quán Thế Âm thành tựu công đức như thế, dùng các thứ thân hình, dạo cùng các nước mà độ thoát chúng sanh, vì vậy chúng ngươi phải “nhất tâm” cúng dường. Bồ tát Quán Thế Âm còn được cõi Ta bà gọi là “Người bố thí vô úy” vì trong hoàn cảnh sợ hãi tai nạn nguy cấp, Bồ tát có khả năng làm cho hết sợ.
Vô Tận Ý bạch Phật: Thế Tôn ! Con xin cúng dường Bồ tát Quán Thế Âm. Nói xong, liền mở xâu chuỗi ngọc đang đeo nơi cổ, giá trị trăm ngàn lượng vàng, đem dâng cho Bồ tát Quán Thế Âm mà nói rằng: Xin ngài nhận món pháp thí bằng châu báu nầy.
Bồ tát Quán Thế Âm không chịu nhận. Vô Tận Ý lại thưa: Xin Ngài thương xót chúng tôi mà nhận cho.
Bấy giờ Phật bảo Bồ tát Quán Thế Âm: Ông nên thương xót Vô Tận Ý và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lầu la, Khẩn na la, Ma hầu la dà, loài người và không phải người v.v….mà nhận chuỗi ngọc.
Vô Tận Ý Bồ tát nói một bài kệ để hỏi Phật:
“Thế Tôn đủ tướng tốt Con nay xin hỏi Phật Phật tử kia duyên gì Tên là Quán Thế Âm”.
Kệ đáp:
“Vô Tận Ý nghe đây, Hãy nghe hạnh Quán âm Khéo ứng các nơi chỗ Thệ rộng sâu như biển
Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn Hầu nhiều nghìn ức Phật Phát nguyện thanh tịnh lớn”.
Ta vì ông lược nói:
Nghe danh và thấy thân Tâm niệm không xao lãng Hay diệt khổ ba cõi
Giả sử khởi ý hại Xô rớt hầm lửa lớn Do sức Quán âm kia
Hầm lửa biến thành ao
Hoặc trôi dạt biển lớn Cá, rồng, quỷ các nạn Do sức Quán âm kia
Sóng mòi dập chẳng chìm
Hoặc ở chót Tu di
Bị người xô rớt xuống Do sức Quán âm kia Như mặt trời trụ không
Hoặc bị người ác rượt Rớt xuống núi kim cang Do sức Quán âm kia Chẳng hại đến mảy lông
Hoặc bị oán tặc vây Đều cầm dao gia hại Do sức Quán âm kia
Đều liền sanh lòng lành
Hoặc bị khổ nạn vua Gia hình mệnh sắp chết Do sức Quán âm kia Dao liền gẫy từng đoạn
Hoặc xiềng xích cầm tù Tay chân bị cùm gông Do sức Quán âm kia Tháo ra được thong thả
Trù ếm tra thuốc độc Muốn hại chết người ta Do sức Quán âm kia Người làm mang hại lấy
Hoặc gặp La sát dữ Độc long các quỷ yêu Do sức Quán âm kia
Chúng liền không dám hại
Hoặc thú dữ vây quanh Nanh vút bén đáng sợ Do sức Quán âm kia
Chạy gấp chẳng kể đường
Rắn độc và bò cạp Phun khí độc mịt mờ Do sức Quán âm kia Tự khắc lui chạy hết
Mây đen sấm sét nổ Giá tuôn mưa xối xả Do sức Quán âm kia Tức thời tiêu tan hết
Chúng sanh bị khổ ách Vô lượng khổ bức thân Quán âm sức trí diệu Hay cứu khổ thế gian Đầy đủ sức thần thông Rộng tu trí phương tiện
Mười phương các cõi nước Không cõi nào chẳng hiện Các loài trong đường dữ Địa ngục, quỷ, súc sanh Sanh, lão, bệnh tử khổ
Lần lần khiến dứt hết
Quán chơn, quán thanh tịnh Quán trí tuệ quảng đại Quán bi và quán từ
Thường nguyện thường chiêm ngưỡng
Quán thanh tịnh không nhơ
Trời trí tuệ phá tối Hay phục tai gió lửa Chiếu sáng khắp thế gian
Thể Bi ngừa sấm sét Ý từ đám mây lành Xối mưa pháp cam lồ
Dứt trừ lửa phiền não
Kiện tụng ở chỗ quan
Trong quân trận sợ sệt
Do sức Quán âm kia
Oán cừu đều tan hết
Diệu âm: Quán Thế Âm Phạm âm, hải triều âm Tiếng hơn hết thế gian
Cho nên thường phải niệm
Niệm niệm chớ sanh nghi Quán Thế Âm Thánh tịnh Với khổ não chết chóc
Làm chỗ nương cậy cho
Đủ tất cả công đức
Mắt lành trông chúng sanh Biển phước lớn vô lượng Thế nên cần đãnh lễ.
Bấy giờ, Bồ tát Trì Địa liền từ chỗ ngồi đứng dậy đến trước Phật thưa rằng:
Bạch Thế Tôn ! Nếu có chúng sanh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn với sức thần thông, đạo nghiệp tự tại nầy thì nên biết công đức của người đó không phải tầm thường.
Lúc Phật nói phẩm Phổ Môn nầy, trong chúng có 84.000 chúng sanh đều phát tâm Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
THÂM NGHĨA
Phẩm Quán Thế Âm Bồ tát Phổ Môn thường gọi giản luợc là phẩm Phổ Môn. Phẩm kinh nầy tùy chủng tánh và trình độ kiến giải của mỗi người mà có sự nhận thức khác nhau. Vì vậy khi ứng dụng việc tu tập hành trì, mỗi người theo sự nhận thức của mình mà “tín ngưỡng”. Thế nên khó tìm một tiêu chuẩn mà nhất trí về Bồ tát Quán Thế Âm và ý nghĩa của phẩm Phổ Môn nầy.
Theo sự phân phán của Hải Ấn đại sư được nhiều bậc đa văn tiền bối tán đồng, phẩm Quán Thế Âm được liệt vào phần Nhập Phật Tri Kiến, giáo nghĩa rất thâm. Đây là pháp thực hành quán niệm dựa trên âm văn của nhĩ căn và thanh trần. Thanh trần và Âm, nhĩ căn và Văn vậy. Nhĩ căn có ba đức tánh Viên, Thông, Thường, nó đặc thù hơn các căn khác.
Ngồi một nơi yên tĩnh, mười phương có tiếng trống, cùng một lúc nghe đủ cả mười. Đó là
đức Viên.
Cách vách có thể nghe tiếng. Tiếng gần tiếng xa cũng có thể nghe. Đó là đức Thông. Có tiếng nghe đã đành, không tiếng tánh nghe vẫn có. Đó là đức Thường của nhĩ căn
vậy.
“Phật xuất Ta bà giới Thử phương chân giáo thể Thanh tịnh tại Âm văn
Dục thủ tam ma đề
Thật tùng Văn trung nhập”.
Ý nghĩa bài kệ đó, nói lên ở kinh Thủ Lăng Nghiêm về sự ưu việt của Âm văn đó. Phương pháp quán niệm Âm văn rất là quan trọng. Tu học phẩm Quán Thế Âm Bồ tát,
Phật tử chúng ta hãy gác qua tình cảm do tập quán và truyền thuyết dân gian hời hợt.
Hãy tìm hiểu kinh điển qua sự thấy biết, tư duy vận dụng lý trí có tánh khách quan, mới có thể nhận chân giáo lý, mới có thể biết được sự thật về những điều Phật dạy chúng ta.
Ở phẩm Thường Bất Khinh Bồ tát thứ 20, đã đề cập Oai “Âm” Vương Phật. Đó là đức Bổn sư đã kín đáo gợi ý, mật chỉ tiền đề cho thính chúng Pháp Hoa Hải hội về Âm Văn trong hồi ấy.
Ở phẩm 21, Như Lai thần lực, Phật mật ý chỉ bày công dụng của Âm Văn tỏ rõ hơn, qua hai sự kiện: tiếng tằng hắng và tiếng khảy móng tay, vang khắp mười phương quốc độ.
Ở phẩm 24, Diệu Âm, công dụng của Âm thanh đến đấy đã thành Diệu: Diệu Âm đến, có mặt, thì cõi Ta bà rực rỡ, trang nghiêm đẹp đẽ. Diệu Âm về, vắng tiếng, cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không còn trang nghiêm đẹp đẽ nữa.
Phẩm Quán Thế Âm thứ 25 nầy, Phật dạy cho chúng ta cách Giữ diệu âm ở lại, để cõi
Ta bà xinh đẹp, rạng rỡ mãi.
Quán Thế Âm là danh hiệu “Nhân cách hóa một phương pháp tu tập”. Quán là vận dụng cái trí năng tri, soi rọi vào tâm để nhận thức đối tượng,
như quán tưởng, quán niệm một đối tượng nào…
Thế có nghĩa là sự vận động tương tục không ngừng của sự vật. Ở đâ nhằm chỉ bày sự tương tục của tâm tưởng chúng ta.
Âm là tiếng, Âm có âm hưởng, âm ba, âm thanh đều là đối tượng của nhĩ
căn.
Quán Thế Âm là quán niệm cái tiếng tăm thầm lặng mà trong như sương, trắng như tuyết, sáng chói như kim cương, nó thường xuyên liên tục không có một phút giây gián đoạn ở lòng ta.
Ở đời có thứ tiếng nào thường xuyên liên tục không gián đoạn?
- Tiếng của tâm ta. Tiếng lòng mầu nhiệm của ta là thứ tiếng thường xuyên va liên tục không ngừng. Nó luôn luôn nói với chúng ta , nếu chúng ta để ý lắng nghe. Nó có khả năng nói ngày nói đêm, nói ở mọi nơi chốn, chỉ trừ lúc ngủ không chiêm bao.
Nhưng làm sao biết được thứ tiếng nào là mầu nhiệm ?
- Thứ tiếng có khuynh hướng tiến lên giải thoát giác ngộ: Bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh định…..được liệt vào tiếng mầu nhiệm, là diệu âm đó. Trái lại, những thứ tiếng có chất
vô minh, phiền não, khổ đau như: tham, sân, si, mạn…người Phật tử phải quên, bỏ nó đi, không nên lưu lại ở ký ức mình.
Diệu Âm tức Quán Thế Âm. Quán Thế Âm tức Diệu Âm đến rồi về để cho cõi Ta bà trở lại trạng thái cũ, không giữ được vẻ xinh đẹp, trang nghiêm nữa. Đó là Diệu Âm Bồ tát vãng lai ở phẩm trước.
Kinh nói:
“Diệu Âm, Quán Thế Âm Phạm Âm, Hải Triều Âm Thắng bỉ thế gian âm
Thị cố tu thường niệm…”
Nghe phẩm Quán Thế Âm, mỗi người phải đặt mình là một Vô Tận Ý Bồ tát. Phải sử
dụng ý thức sâu xa vô tận, tư duy thăm thẳm tột suốt nguồn tâm, để nhận thức thâm nghĩa của kinh. Nếu sử dụng ý thức nông cạn, tư duy hời hợt, “tín ngưỡng” Quán Thế Âm như một đấng thần quyền, sẽ sa vào mê tín dị đoan, làm cho người trí khinh chê, chánh pháp từ đây mai một !
Giả sử có vô lượng chúng sanh đang gánh chịu nhiều điều khổ não mà được nghe “Hạnh Quán Thế Âm”, liền quán âm thanh đó, thì họ sẽ được giải thoát những điều khổ não. Quán niệm “âm thanh” có nghĩa là quán tiếng tâm mình, là Diệu Âm vậy.
Trọng tâm cứu khổ của Quán Thế Âm nhằm giải thoát sự khổ tâm, sự khổ tinh thần. Tất nhiên, khi giải thoát khổ tinh thần, thì thân thể lành mạnh và mọi giá trị vật chất sẽ có ở
tầm tay. Vì vật chất không ngoài tinh thần; tinh thần không ngoài vật chất. Hai thứ ấy tác động hữu cơ. Thế thì sự cứu độ, sự ban cho của Quán Thế Âm là cứu độ, ban cho tinh thần, tinh thần những gì thuộc lãnh vực giải thoát giác ngộ của tâm tư và ý thức. Bồ tát sẽ không ban cho vật chất hữu vi cho chúng sanh đâu, vì làm như vậy tức là dồn đẩy chúng sanh vào con đường khổ ải triền miên không lối thoát. Mà Bồ tát thì không thể nào làm việc ác đức và tội lỗi đối với lương tâm mình.
Bởi vì:
“Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao Tùng tham dục khởi Thiểu dục vô vi Thân tâm tự tại…”
Kinh Bát đại Nhơn giác, Bồ tát đã thuộc nằm lòng
….”Nhơn hệ ư thê tử xã trạch, thậm ư lao ngục. Lao ngục hữu tán thích chi kỳ, thê tử vô viễn ly chi niệm. Tình ái ư sắc khởi đản khu trì, tuy hữu khổ khẩu chi hoạn tâm tồn cam phục. Đầu nê tự nịch cố viết phàm phu, thấu đắc thủ môn xuất trần La hán”.
(Dính dấp vào con đường thê tử cũng như phu tử còn nguy khổ hơn bị tù. Ở tù còn có ngày mãn hạn, chứ thê tử thì không sao có được ngày tháng rảnh rang..)
Kinh Tứ thập nhị chương, Bồ tát cũng đã thuộc kỹ
“Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng, huyển, bào, ảnh Như lộ diệc như điện
Ưng tác như thị quán….”
Kinh Kim Cang Bát Nhả, Bồ tát Quán Thế Âm thì làm sao quên được
Quán Thế Âm Bồ tát còn thuộc nhiều kinh lắm, chỉ có những người trong giới:
“Đẳng nhàn quá nhật, ngột ngột độ thời. Khả tích quang âm bất cầu thăng tiến. Đồ tiêu thập phương tín thí, diệc nải cô phụ tứ ân…”
Họ cố bóp méo sự thật về “Hạnh Quán Âm”. Họ tôn thờ và truyền bá Quán Thế Âm như một Bồ tát chuyên là công tác “từ thiện xã hội”. Rằng Quán Thế Âm Bồ tát hứa sẽ giúp đỡ, hộ độ tất cả những gì người tín chủ muốn, miễn là “có lễ” và “thiết lễ cầu an” trước tượng Ngài, thành tâm khẩn nguyện và tụng phẩm “Phổ Môn Kinh”.
Không, không thể như vậy được. Bồ tát là bậc Đại đạo tâm, thành tựu chúng sanh. Bồ tát là bậc hữu tình đã giác ngộ. Bồ tát là bậc giác ngộ cho chúng hữu tình. Đạo lý nhân quả
Phật dạy, Bồ tát đã thân chứng. Chánh tà, chơn ngụy, chánh pháp, phi pháp, với trí tuệ
“hành thâm Bát nhã Ba la mật đa” không cần suy nghĩ, Bồ tát đã biết rõ hết rồi.
Thế mà người ta nói: Bồ tát là đại từ đại bi, cứu khổ, cứu nạn, Ngài độ hết thảy chúng sanh vô điều kiện, chỉ cần “cúng dường”, “cầu nguyện” và tha thiết “khấn vái” Ngài. Ý nghĩa nông cạn đó, việc làm không lý trí đó, với người trí, quả là sự bôi nhọ, sự sĩ nhục nặng nề đối với một Bồ tát “Đẳng Giác Quán Thế Âm”.
Muốn hiểu Bồ tát Quán Thế Âm cứu khổ với hình thức nào, chúng ta phải hiểu những vấn
đề được biểu trưng về khổ nạn và giải thoát khổ nạn được an vui như sau:
1. VỀ MẶT MẤT MÁT VÀ KHỔ NẠN:
Nạn lửa, chỉ cho tánh “thấy biết”, vì tánh thấy biết trái ý hay sanh tánh nóng nảy như lửa. Cho nên về lửa có: Lửa giận tức. Lửa dâm dục. Lửa bất mãn, bất bình. Lửa hận não nung đốt tâm can.
Nạn nước, chỉ cho tánh “nghe biết”, vì nếu nghe tiếng đàn giọng huyễn, dễ bị cuốn trôi, nhận chìm trong nhục dục khổ đau. Tánh luyến ái nặng nề, cũng được ám chỉ một hình thức cuốn trôi, nhận chìm của nước.
Quỷ la sát, ám chỉ những kẻ độc ác, hung bạo giết người.
Dao gậy, ví cho sức tác hại của sáu căn xúc đối với sáu trần, sanh ra sự đau khổ như cắt, như đánh.
Ma quỷ, chỉ sự cám dỗ của tham, sân, si, mạn, nghi, giải đãi, thùy miên, phóng dật, hôn trầm….
Gông cùm xiềng xích, biểu trưng cho sự mê mờ tối tăm vì những thứ đó làm cho con người mất tự do tự tại, kìm hãm sức phát triển về thể xác lẫn tinh thần.
Giặc cướp, ám chỉ những hành động sai quấy tội lỗi. Do đó, mất sạch công đức lành ví như bị giặc cướp hết sạch của cải.
Nói chung, tất cả những từ có tính cách tác hại, gây đau khổ, mất mát ở phẩm Phổ Môn đều phải được hiểu: Là những tác động tâm lý thuộc loại “tâm sở bất thiện”. Không được hiểu đó là sự kiện “cụ thể” ở ngoại cảnh trước mắt. Hiểu trái lại thì nó trở thành chuyện mê tín hoang đường.
2. VỀ MẶT ĐƯỢC VÀ AN VUI
Thất bảo là vàng bạc, lưu ly v.v..biểu trưng thất thánh tài: tín, giới, văn, tàm, quý, niệm,
định, xã.
Của báu, biểu trưng tất cả công đức lành.
Con trai, biểu trưng trí tuệ và giác ngộ
Con gái, biểu trưng phước đức và giải thoát.
Ngoài ra, tất cả những từ mang tính cách “lành mạnh” và “an vui” trong phẩm kinh nầy, phải được hiểu là: Phước đức, trí tuệ, giải thoát và giải thoát tri kiến thuộc loại “tâm sở thiện”. Tóm lại, “tâm sở thiện hay bất thiện” cũng được hiểu đó là cách nói về biểu
trưng. Vì lẽ Quán Thế Âm là pháp tu để “Nhập Phật tri kiến” chớ không phải là một thần thánh để nguyện cầu.
Phẩm Phổ Môn là phẩm thứ 25 trong 28 phẩm kinh Đại Thừa Diệu Pháp Liên Hoa, nếu đưa vào đây một Bồ tát chuyên làm công tác xã hội tầm thường như thế, thì quả là phỉ báng Thế Tôn lắm vậy.
Người cúng dường và thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ tát, cốt để được định tuệ, để trở về với tâm thanh tịnh, giải thoát giác ngộ của mình. Người quán niệm tiếng lòng mầu nhiệm của mình thì người đó có được định tuệ và sống với tâm thanh tịnh giải thoát giác ngộ. Vì vậy, thọ trì danh hiệu 62 ức hằng hà sa Bồ tát và thọ trì danh hiệu Quán Thế Âm thôi, hai công đức bằng nhau không khác, vì mục đích đạt đến ngang nhau.
Đáp câu hỏi của Vô Tận Ý Bồ tát, Quán Thế Âm vân du khắp Ta bà với hình thức nào.
Thế Âm thường trực ở trong tâm tưởng của tất cả chúng sanh trong 10 pháp giới thánh phàm. Chúng sanh nào cần cứu độ thì Thế Âm dùng thân đó mà thuyết pháp hóa độ. Vì Thế Âm là “tiếng lòng thường trực” của tất cả chúng sanh vậy.
Pháp Quán Thế Âm là thứ pháp thí cho chúng sanh vô úy (không sợ). vì quán niệm Thế Âm nhất tâm thanh tịnh, thì chẳng còn gì đáng sợ nữa, kể cả sự chết, hành giả cũng xem đó là việc rất bình thường. Bình thường vì đó là quy luật, là chân lý tất yếu, tất nhiên.
Giác ngộ vô thượng không có gì cao xa và bí ẩn cả.
Người giác ngộ là người hiểu rõ, nắm trọn quy luật của thiên nhiên vũ trụ, rồi sống đúng theo quy luật đó, để cuộc sống khỏi bất mãn, khỏi khổ đau, mà kinh điển gọi là sống theo “chân lý”. Thanh Văn, Duyên Giác, Bồ tát, Phật có ông nào trường sanh bất tử đâu. Thế mà cái chết của các Ngài được gọi là “Niết bàn” là “thoát ly sanh tử”. Còn phàm phu chỉ là chết mà gọi là “sanh tử luân hồi”, “ưu bi khổ não”. Nguồn gốc do đâu ? Do chấp cái “Ta” và cái “của ta”. Khởi niệm chấp là trái chân lý, trái quy luật thiên nhiên vũ
trụ. Gốc khổ phát sanh từ ý niệm chấp thủ của con người, là “vô minh nghiệp tướng”.
Quán Thế Âm là “nhân”, “bổn giác” và “thỉ giác” là quả. Bổn giác, thỉ giác mới là mục tiêu cứu cánh của tu pháp quán niệm Thế Âm. Vì vậy Thế Âm Bồ tát không dám nhận “quà” của Vô Tận Ý Bồ tát cúng dường. Sau khi nghe lời Phật khuyến khích Thế Âm mới nhận, nhưng rồi tức khắc dâng lên Phật Đa Bảo Như Lai (bổn giác) và Thích Ca Mâu Ni
(Thỉ giác). Vì chỉ có bổn giác và thỉ giác mới là địa vị thẩm quyền tối thượng để nhận
“của báu vô giá” của tấm lòng trong trắng “Vô Tận Ý” hiến dâng.
Sắp chấm dứt thời pháp về Quán Thế Âm Trì Địa Bồ tát (tâm địa) xuất hiện tán thán biểu đồng tình. Đó là một sự kiện có ý nghĩa sâu xa ! Tâm và Ý cần tiếp thu và nhận thức một cách hổ tương và đồng bộ thì hiệu quả giác ngộ giải thoát mới cao. Rằng: Hãy vận dụng tâm và ý mà quán niệm Thế Âm. Làm được vậy là Diệu Âm sẽ ở mãi nơi lòng ta. Diệu Âm không về đâu cả.
0 nhận xét:
* Quý vị có thể để lại nhận xét, cảm nhận dưới mỗi bài viết nhưng:
- Không bàn luận đến chính trị của các quốc gia trên thế giới.
- Không được bàn luận hay phỉ báng bất kỳ tôn giáo nào khác.
- Không bàn luận tới sắc tộc gây chia rẽ các dân tộc trên toàn thế giới.
- Không viết những lời thô tục
- Không xúc phạm, chửi bới người khác
- Không đặt liên kết tới những Website đen, có chứa Vi rút hay những phần mềm có chứa mã độc hại
+ Chỉ bàn luận những lĩnh vực liên quan tới Phật Giáo.
+ Hãy giới thiệu Website này tới những người thân, bạn bè của quý vị. Những người không theo, sẽ theo và đã theo Đạo Phật đều có thể xem và tim hiểu trên Website này.
* Hướng dẫn viết nhận xét:
+ Viết nhận xét, cảm nghĩ vào ô bằng Tiếng Việt có dấu
+ Nhận xét với tư cách: Vui lòng nhấp vào lựa chọn trong thanh thả ( Nếu bạn có 1 blog thì hãy đăng nhập, nếu không có thì chọn Ẩn danh)
+ Cuối cùng thì kiểm tra nhận xét và nhấp vào nút: Đăng Nhận xét
* Trân trọng cám ơn!